25 nhà khoa học nổi tiếng nói về Thượng Đế (Thiên Chúa)
Ngày nay, người ta vẫn cho rằng khoa học và đức tin không thể đội trời chung. Tuy nhiên, theo tiến sĩ Harriet Chad Zuckerman của trường Đại học Columbia nước Mỹ, năm 1977 trong tài liệu thống kê nổi tiếng “Anh tài khoa học – những người đoạt giải Nobel nước Mỹ”, từ năm 1901 khi thiết lập giải Nobel đến nay, trong 286 nhà khoa học đã đạt giải khoa học của nước Mỹ, 73% là tín đồ Chúa Ki-tô, 19% là tín đồ Do Thái.
Dưới đây là 25 nhà khoa học nổi tiếng nói về Thượng Đế/ Thiên Chúa/ Đấng Sáng Tạo.
1. Johannes
Kepler (1571–1630)
Ông là một trong những nhà thiên văn vĩ đại nhất:
“Thiên
Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Ngài vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn. Hãy ca
tụng Ngài bằng ngôn ngữ của mình, hỡi trời và đất, mặt trời và mặt trăng, các
tinh tú. Lạy Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng nên con! Với trí khôn giới hạn của
con, con muốn loan báo sự kỳ diệu của các công trình Ngài cho mọi người hiểu
được”.
2. Nicolaus Copernicus (1473–1543)
Ông là nhà thiên văn học và là người đề xuất
thuyết nhật tâm (heliocentrism):
“Ai có
thể sống cận kề với một trật tự hoàn bị nhất và trí năng siêu vượt của Thiên
Chúa mà không cảm thấy dâng trào những cảm hứng cao quý? Nào ai không thán phục
vị kiến trúc sư của tất cả các công trình này?”
3. Isaac Newton (1643–1727) – xem thêm chú thích
Nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển:
“Điều
ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao
la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một
Đấng toàn năng và toàn tri”.
4. Carl Linnaeus (1707–1778)
Nhà sáng lập môn thực vật học hệ thống:
“Tôi đã
thấy Thiên Chúa toàn năng, vô hạn và vĩnh cửu đi ngang qua rất gần, và tôi quỳ
xuống bái lạy Ngài”.
5. Alessandro Volta (1745–1827)
Người khám phá ra các ý niệm cơ bản về
điện:
“Tôi
tuyên xưng Đức tin Công Giáo Roma, thánh thiện và tông truyền. Tôi tạ ơn Thiên
Chúa đã ban cho tôi đức tin này, nhờ đó mà tôi có một ý hướng vững chắc để sống
và chết”.
6. Andre-Marie Ampere (1775–1836)
Người khám phá ra các định luật cơ bản về điện:
“Thiên
Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh!”.
7. Augustin Louis Cauchy (1789–1857)
Nhà toán học kiệt xuất và nhà sáng lập môn Toán
phân tích phức tạp (complex analysis):
“Tôi là
Kitô hữu, có nghĩa là tôi tin vào thần tính của Đức Kitô, giống như tất cả các
nhà thiên văn vĩ đại khác cũng như các nhà toán học lớn trong quá khứ”.
8. Carl Friedrich Gauss (1777-1855)
Ông được cho là “Ông hoàng của các nhà toán học”
vì đã đóng góp nhiều vào lãnh vực toán học và khoa học:
“Khi
giờ cuối cùng đã điểm, chúng ta vui sướng hân hoan vì sẽ nhìn thấy Đấng mà
chúng ta chỉ có thể thấy lờ mờ trong tất cả những khám phá của chúng ta”.
9. Justus von Liebig (1803–1873)
Nhà hóa học lừng danh:
“Sự vĩ
đại và trí khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người
cố công rút ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là
thiên nhiên”.
10. Robert Mayer (1814–1878)
Nhà khoa học tự nhiên (Định luật bảo tồn
năng lượng):
“Tôi đang
dần kết thúc cuộc đời mình với sự quả quyết rằng: khoa học thật sự và triết học
thật sự không là gì khác ngoài là môn dẫn nhập cho Kitô giáo”.
11. Angelo Secchi (1803–1895)
Nhà thiên văn học lừng danh:
“Từ
chiêm ngưỡng đất trời đến Thiên Chúa chỉ là một khoảng cách ngắn”.
12. Charles Darwin (1809–1882)
Thuyết tiến hóa:
“Tôi
không bao giờ từ chối sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tôi nghĩ thuyết tiến hóa phù
hợp với niềm tin vào Thiên Chúa. Tôi cho rằng bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự
hiện hữu của Thiên Chúa đó là ta không thể giải thích hay hiểu được vũ trụ mênh
mông vượt xa mọi phép tính toán và không thể giải thích được rằng con người là
kết quả của ngẫu nhiên”.
13. Thomas A. Edison (1847–1931)
Nhà sáng chế nắm giữ 1200 bằng sáng chế:
“Tôi
tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất:
Thiên Chúa”.
14. Carl Ludwig Schleich (1859–1922)
Nhà phẫu thuật nổi tiếng, người tiên phong của
phương pháp gây tê tại chỗ (local anesthesia):
“Tôi
trở thành tín hữu qua kính hiển vi và quan sát thiên nhiên, và tôi muốn đóng
góp theo khả năng mình vào sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo”.
15. Guglielmo Marconi (1874–1937)
Nhà sáng chế vô tuyến điện thoại, giải Nobel
1909:
“Tôi
hãnh diện tuyên xưng rằng mình là một tín hữu. Tôi tin vào quyền năng của sự
cầu nguyện, và tôi tin không chỉ như là người Công giáo mà còn là một nhà khoa
học”.
16. Robert Millikan (1868–1953)
Nhà vật lý Hoa Kỳ, giải Nobel 1923:
“Tôi có
thể khẳng định rằng việc từ chối đức tin là thiếu nền tảng khoa học. Theo quan
điểm của tôi, không có bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa đức tin và khoa học”.
17. Arthur Eddingtong (1882–1946)
Nhà thiên văn học người Anh, nhà toán học và vật
lý thiên thể:
“Trong
số những người sáng tạo nên thuyết vô thần thì không có ai là nhà tự nhiên học.
Tất cả họ đều là những triết gia tồi”.
18. Albert Einstein (1879–1955)
Người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương
đối), giải Nobel 1921:
“Những
ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định
luật của vũ trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người
và chúng ta phải cảm thấy mình thật thấp kém”.
19. Max Planck (1858–1947)
Người sáng tạo nên vật lý lượng tử (quantum
physics), giải Nobel 1918:
“Do
xung lượng của kiến thức đòi hỏi, không gì ngăn cản chúng ta liên kết trật tự
của vũ trụ với Thiên Chúa của tôn giáo. Đối với người tin, Thiên Chúa đứng ở
đầu câu chuyện; đối với nhà vật lý, Thiên Chúa ở cuối câu chuyện”.
20. Erwin Schrödinger (1887–1961)
Người khám phá ra cơ học sóng (wave mechanics),
giải Nobel 1933:
“Kiệt
tác tinh vi nhất là tác phẩm của Thiên Chúa, theo các nguyên tắc cơ học lượng
tử (quantum mechanics)…”.
21. Howard H. Aiken (1900-1973)
Người tiên phong trong lãnh vực máy tính:
“Vật lý
hiện đại dạy tôi rằng thiên nhiên không thể tự xếp đặt mình theo trật tự. Vũ
trụ là một khối trật tự khổng lồ. Vì vậy, nó đòi hỏi một “Nguyên Nhân Đầu Tiên”
thật vĩ đại và không phụ thuộc vào định luật biến đổi năng lượng hai và vì thế
đó là Đấng Siêu Nhiên”.
22. Wernher von Braun (1912–1977)
Kỹ sư tên lửa và kiến trúc sư không gian:
“Trên
hết mọi sự là vinh quang Thiên Chúa, Đấng mà con người và khoa học khám phá và
tìm kiếm mỗi ngày với sự tôn kính thẳm sâu”.
23. Charles Townes (1915)
Nhà vật lý cùng nhận giải Nobel 1964 vì đã khám
phá ra các nguyên tắc của tia laser:
“Là
người có tôn giáo, tôi cảm thấy được sự hiện diện và can thiệp của Đấng Sáng
Tạo ở cách xa tôi nhưng luôn rất gần … một trí năng góp phần sáng tạo nên các
định luật của vũ trụ”.
24. Allan Sandage (1926-2010)
Nhà thiên văn Hoa Kỳ, người tính toán tốc độ giãn
nở của vũ trụ và tuổi của nó bằng cách quan sát các vì sao xa:
“Thuở
thiếu thời tôi là người vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới
này phức tạp hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng
cách nại vào một Đấng Siêu Nhiên”.
25. Luis Pasteur
Tấm danh thiếp và sự ngạc nhiên:
Một sinh viên trẻ ngồi cùng toa xe lửa với một
ông già đang lần hạt. Anh mạnh dạn bắt chuyện với ông: “Thay vì lần hạt, tại
sao ông không dành thời gian học hỏi và tự đào luyện bản thân đôi chút nhỉ? Tôi
có thể gởi cho ông một cuốn sách hướng dẫn”.
Ông già đáp: “Anh làm ơn gởi
cuốn sách đến địa chỉ này”, và ông trao cho anh sinh viên tấm danh thiếp. Tấm
danh thiếp ghi là: Luis Pasteur, Viện khoa học Paris. Anh sinh viên cảm thấy
xấu hổ vô cùng. Anh định khuyên nhủ một học giả lừng danh nhất của thời đại
mình, nhà sáng chế ra vaccines, được cả thế giới ca tụng và là một người siêng
năng lần hạt.
Hy vọng bài viết này có thể
củng cố niềm tin của các bạn trẻ và khích lệ các bạn đào sâu khoa học cũng như
đức tin của mình. Đồng thời, bài viết này cũng là một lời khẳng định chắc chắn
với những ai cho mình chỉ tin vào khoa học mà loại bỏ đức tin.
Một điều đáng nhắc tới là Newton –
nhà vật lý học lỗi lạc, là một Ki-tô hữu thành kính. Trong nền giáo dục nhồi
nhét, một số sách giáo khoa cố ý nói rằng những năm cuối đời Newton đã dấn thân
vào tôn giáo và do vậy không có thêm sáng tạo gì, khiến con người hiểu lầm rằng
rất nhiều phát hiện khoa học những năm đầu được dẫn dắt bởi thế giới quan của
“Thuyết vô Thần”, còn những năm cuối đời, tín ngưỡng tôn giáo đã gây trở ngại
cho việc sáng tạo khoa học. Nhưng sự thực là Newton đã sớm là một Ki-tô hữu
trước khi theo đuổi nghiên cứu khoa học, mà cả đời ông tin vào Thiên Chúa không
hề thay đổi.
Khi Newton còn học tại trường Cambridge,
ông đã sớm là một Ki-tô hữu thành kính. Ông thường hay viết những lời cầu
nguyện của mình vào những chỗ trống trong sổ tay hay sách vở, thậm chí đến nay
vẫn còn lưu giữ rất nhiều trong viện bảo tàng Anh. Ông cũng thường cùng với
người bạn cùng phòng tên là Andrew Wiggins ra ngoài phân phát Thánh kinh cho
người nghèo, gửi Phúc Âm tới cho họ.
Thậm chí những suy xét về khoa học của
Newton cũng có mối quan hệ không thể tách rời với những lời cầu nguyện trong
cuộc sống của ông. Ông thường nghĩ tới khoa học trong dòng suy nghĩ về tín
ngưỡng, trong dòng suy nghĩ về khoa học ông cũng nhớ tới tín ngưỡng. Đến nỗi
sau này giáo sư Manuel khoa lịch sử trường đại học New York trong cuốn “Newton
truyện” của mình đã nói: “Khoa học cận đại khởi nguồn từ những mặc
niệm của Newton về Thiên Chúa.”
Nhận xét
Đăng nhận xét