Danh hiệu vị lãnh đạo của Hội Thánh Công Giáo
Hỏi: Ngoài danh hiệu Đức Giáo Hoàng và Đức Thánh
Cha, vị lãnh đạo của Hội Thánh Công Giáo còn có danh hiệu nào không?
Trả lời:
Trong tiếng Việt, vị lãnh đạo của Hội Thánh Công
Giáo được gọi bằng nhiều danh xưng: Đức Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha, Đức Giáo chủ
(Đức Giáo tông).
Có lẽ, chỉ có danh hiệu “Đức Thánh Cha” là dịch sát
với các tiếng Âu châu hơn hết (Saint Père, Holy Father, Sancto Padre).
Trong tiếng La-tinh, người ta còn gán cho Đức Thánh
Cha những danh hiệu khác nhau như: Episcopus
Ecclesiae Catholicae, Romanus Pontifex, Papa, Sedes Apostolica, Servus servorum
Dei, Vicarius Petri, Vicarius Christi, Caput Ecclesiae, Sua Sanctitas. Những
danh hiệu này có ý nghĩa gì?
Episcopus Ecclesiae Catholicae
Ở cuối công thức ban hành các văn kiện của Công Đồng
Va-ti-ca-nô II, Đức Phao-lô VI ký tên với danh hiệu này. Nếu dịch ra tiếng Việt,
thì nó có nghĩa là Ngài là “Giám mục của toàn thể Hội Thánh Công Giáo”, nhưng
Ngài không sử dụng nghĩa đó, mà sử dụng nghĩa “Giám mục Rô-ma” (Urbis Romae).
Romanus Pontifex
Dịch ra tiếng Việt là “Giám mục Rô-ma”. Có thể nói
đây là danh hiệu nguyên khởi của Đức Thánh Cha.
Papa
Đây là một danh xưng thân mật: cha. Bên Đông phương, các giám mục và linh mục đều được gọi là
papas. Nhưng bên Tây phương, từ thế kỷ thứ III, danh xưng ấy được dành cho các
giám mục, từ thế kỷ IX, dành riêng cho giám mục Rô-ma (papa urbis Romae). Khi dịch ra tiếng Pháp là le Pape và tiếng Anh là the
Pope, nó đã mất đi tính cách gia đình, nhưng nó vẫn còn âm vang ở tiếng Tây
Ban Nha và tiếng Ý.
Sedes Apostolica
Trong tiếng Việt, chúng ta dịch là “Tòa Thánh”, mà lẽ
ra phải dịch là “Tòa Tông Đồ”, hoặc “Tông Tòa” mới đúng, tuy rằng về thực chất
“Tòa Thánh” (Sancta Sedes, Saint Siège,
Holy See) và “Tòa Tông Đồ” đồng nghĩa.
Lúc đầu, từ “Tòa Tông Đồ” ám chỉ giáo phận hay tòa
giám mục do thánh tông đồ lập (ví dụ, giê-ru-sa-lem, An-ti-ô-ki-a,
A-lê-xan-ri-a, Ê-phê-sô). Tuy nhiên, bên Tây phương chỉ có một mình giáo phận
Rô-ma là do thánh Tông đồ Phê-rô lập, nên dần dần tiếng :Tòa Tông Đồ” được được
dành cho giám mục Rô-ma. Cũng vậy, những tính từ gắn liền với tiếng “tông đồ”
(tựa như phép lành tông đồ: Benedictio
Apostolica, quen dịch là Phép lành Tòa Thánh), lúc đầu được áp dụng hết cho
các giám mục, thừa kế các thánh tông đồ, nhưng từ thế kỷ XIV, danh riêng cho Đức
Thánh Cha mà thôi.
Servus servorum Dei
Dịch là “Tôi tớ ủa các người tôi tớ Chúa”. Nguồn gốc
của danh xưng này bắt đầu từ các tác phẩm của thánh Bê-nê-đích-tô (Biển Đức) và
thánh Au-gút-ti-nô nói về quyền bính trong Hội Thánh: quyền bính được trao để
phục vụ chứ không phải để thống trị.
Vì vậy không lạ gì nhiều giám mục, viện phụ xưng mình
với danh hiệu ấy. Riêng Đức Thánh Cha Gregorio Cả đã dùng danh xưng này để đáp
lại công thức trịch thượng của Giáo chủ Constantinôplis khi phong mình là Thượng
phụ hoàn vũ (Patriarcha oecumenicus).
Từ thế kỷ XIII, danh xưng “Tôi tớ các tôi tớ Chúa” được dành riêng cho các Đức
Thánh Cha.
Vicarius Petri, Vicarius Christi
Nghĩa là “Đại diện thánh Phê-rô”, “Đại diện Chúa
Ki-tô”.
Đức Thánh Cha được coi là đại diện của thánh Phê-rô
(Vicarius Petri) theo nghĩa là tiép tục
công tác và chức vụ của thủ lãnh các tông đồ.
Còn tiếng “Đại diện Chúa Ki-tô” (Vicarius Christi) lúc đầu được dùng với
ý nghĩa thiêng liêng, theo nghĩa là Đức Thánh Cha (cùng các giám mục, linh mục)
là dấu chỉ sự hiện diện của Đức Ki-tô giữa đoàn chiên. Nhưng với Đức
In-nô-xen-tê III, tiếng Vicarius Christi
được hiểu theo nghĩa pháp lý, nghĩa là người nắm giữ quyền hành của Đức Ki-tô.
Từ đó, chỉ có Đức Thánh Cha mới dùng danh hiệu này.
Tuy nhiên, trong Hiến Chế về Hội Thánh số 21 và 27 (Lumen Gentium số 21 và 27), Công Đồng
Va-ti-can-nô II cũng gọi các giám ục là “Đại diện Đức Ki-tô”, theo nghĩa thiêng
liêng là làm hiện thân Đức Ki-tô, mục tử.
Caput Ecclesiae
Nghĩa là “Nguyên thủ của Hội Thánh”.
Lúc đầu danh hiệu này được áp dụng cho Đức Thánh
Cha, xét vì là nguyên thủ của Hội Thánh Rô-ma, nhưng Đức In-nô-xen-tê I và Lê-ô
I nới rộng ra toàn thể Hội Thánh. Dĩ nhiên, chỉ Đức Ki-tô mới thực là nguyên ủy
của Hội Thánh, xét vì Ngài là cội nguòn của ơn cứu chuộc thông tràn cho các phần
tử được quy tụ nhân danh Ngài. Như thế, Đức Thánh Cha là nguyên thủ theo nghĩa
là ngươi lãnh đạo hữu hình của Hội Thánh.
Sua Sanctitas (His Holiness, Sa Sainteté)
Có thể dịch là “Đấng thánh”, “bậc thánh thiện”.
Tiếng Việt không dịch nhiều thuật ngữ dùng ở giáo
triều Rô-ma: Sua Santità dành cho Đức
Thánh Cha (hay các Thượng phụ chính thống), Sua
Eminenza (dành cho Hồng y), Sua
Eccllenza (dành cho Giám mục).
Như vậy, vị thủ lãnh của Hội Thánh Công Giáo có rất
nhiều danh xưng khác nhau. Mỗi danh xưng đều gắn với một lịch sử: có danh xưng
thể hiện quyền lực (Caput Ecclesiae),
nhưng cũng có những danh xưng thể hiện ơn gọi của Ngài (Episcopus Ecclesiae Catholica, Sedes Apostolica, Servus servorum Dei,
Vicarius Petri, Vicarius Christi, Sua Sanctitas) và có những danh xưng thể
hiện lòng yêu mến của đoàn chiên dành cho vị cha chung của Hội Thánh (Papa).
Riêng đối với Hội Thánh Việt Nam, chúng ta thường gọi
Ngài là Đức Thánh Cha hay Đức Giáo Hoàng. Việc đặt tiếng “đức” trước danh hiệu
cũng thể hiện một sự kính trọng và lòng yêu mến của con chiên Việt Nam đối với
vị mục tử chung của Hội Thánh.
Đức tin Công Giáo
trích từ bài viết của Linh mục Giu-se Phan Tấn Thành O.P
trích từ bài viết của Linh mục Giu-se Phan Tấn Thành O.P
Nhận xét
Đăng nhận xét