Một số đóng góp nổi bật của Giáo Hội Công Giáo
Những
người theo Đạo (Công Giáo) thường được coi là những kẻ ngu: “Ngu nên mới đi Đạo”,
hay “ngu gì mà theo Đạo”,… Những câu nói đó dường như đã ngấm vào tâm thức của
người Việt. Do vậy, những người lương dân thì cho rằng những kẻ theo Đạo là
ngu; còn những kẻ theo Đạo thì cũng nghĩ là mình “ngu”; bằng chứng là các thầy
cô giáo trong trường toàn là những người không theo Đạo, trong khi đó không thấy
một thầy cô nào theo Đạo. Rồi các nhà lãnh đạo quốc gia, các “sếp” hay các sinh
viên giỏi toàn là những người ngoại Đạo, chứ có ai là có Đạo đâu?...
Khi
dẫn chứng ra thì vô vàn sự chênh lệch trong xã hội Việt này khiến cả lương lẫn
giáo đều tin chắc như thế: theo Đạo là những người ngu! Tuy nhiên, trong bài viết
này chúng tôi không nói đến nguyên nhân tại sao có sự chênh lệch, nhưng sẽ đề cập
đến các đóng góp của Giáo Hội Công Giáo cho nhân loại, nhất là những đóng góp về
khoa học – điều mà các thầy cô (đại diện cho những người giỏi) sử dụng để dạy
cho các học sinh, sinh viên. Từ đó mà chúng ta, cả lương lẫn giáo, có thể xóa
đi “ác cảm” thấm nhập tự bao giờ trong tâm thức của chúng ta.
Hỡi
những người có Đạo, đừng ngần ngại khi người khác cho rằng theo Đạo là ngu, bởi
trong một số xã hội, các bạn chưa có cơ hội phát triển.
Hỡi
những bạn lương dân, đừng cho rằng theo Đạo là những kẻ ngu đần, dại dột, nhưng
hãy thực sự tìm hiểu kỹ chứ đừng theo dư luận mà phán quyết bừa bãi.
Dưới
đây, chúng tôi đưa ra một số đóng góp nổi bật của Giáo Hội Công Giáo:
Trong
lĩnh vực khoa học căn bản
Giáo
hội Công giáo đã đặt tiền đề cho các ngành khoa học căn bản là: thiên văn học, khoa học vũ trụ, sinh học, di truyền học, hình học, đại số, toán học, khoa học địa lý và
ngành bản đồ học, các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu về thiên nhiên và Trái Đất, v.v. qua những nhà
bác học lỗi lạc của Giáo hội như Linh mục Gregor Mendel, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại, người đề
ra định luật Mendel và các nguyên tắc phân ly độc lập, di truyền
giống, biến đổi gen; nhà bác học đa tài Nicolaus Copernicus;
nhà bác học Blaise Pascal; nhà bác học Linh mục Matteo Ricci; v.v.
Giáo
hội Công giáo hình thành hai ngành khoa học cơ bản là triết học và thần học vào buổi bình
minh của lịch sử, đặt nền tảng cho các lý luận của con người tới tận ngày nay
nhằm giải quyết các vấn đề của bản thể luận, nhận thức luận, tôn giáo, đức tin và linh hồn.
Trong
lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc và kiến trúc Tây phương
Giáo hội Công giáo giúp hình thành và phát triển nền nghệ thuật,
âm nhạc và kiến trúc phương Tây với các nhà soạn nhạc vĩ đại như Beethoven, Mozart, Bach, các họa sĩ và kiến trúc sư lừng danh mọi thời đại như
Michelangelo, Bernini, Raphael, Caravaggio, Antoni Gaudí, Leonardo da Vinci, v.v.
Michelangelo, Bernini, Raphael, Caravaggio, Antoni Gaudí, Leonardo da Vinci, v.v.
Trong
lĩnh vực y tế
Giáo
hội Công giáo sở hữu và điều hành hơn 1/4 (26%) số bệnh viện và cơ sở chăm sóc
y tế trên toàn thế giới, nhiều hơn bất kỳ quốc gia, tổ chức hay định chế nào,
bao gồm: hơn 117.000 cơ sở chăm sóc y tế; 5.428 bệnh viện lớn; 18.025 phòng
khám đa khoa và chuyên khoa; 15.985 trại tế bần, viện dưỡng lão, trung tâm chăm
sóc người tàn tật; 9.962 cô nhi viện; 11.902 trường đào tạo y bác sĩ; 13.945
trung tâm tư vấn hôn nhân gia đình; 529 trung tâm chăm sóc người phong cùi, hủi;
hơn 18.000 xưởng sản xuất thuốc và nhà thuốc; và hơn 34.250 cơ sở chăm sóc người
nhiễm HIV/AIDS và cơ sở y tế các loại khác...
Trong
lĩnh vực giáo dục
Giáo hội Công giáo sở hữu và điều hành khoảng 1/5 (25%) hệ thống giáo dục toàn cầu gồm:
67.848 nhà trẻ và trường mẫu giáo; 93.315 trường tiểu học; 42.234 trường trung
học; hàng ngàn trường đại học, viện đại học và học viện trên khắp thế giới với
số lượng lên tới hơn 50 triệu sinh viên. Giáo hội Công giáo còn điều hành hàng trăm tổ chức và viện nghiên cứu cao cấp
về các lĩnh vực khác nhau khắp thế giới, 1
viện hàn lâm khoa học và nhiều viện
nghiên cứu sinh học, vật lý, thiên thể, vũ trụ, lượng tử, toán học, hóa học, hạt nhân...
Giáo
hội Công giáo đã phát triển và đặt nền tảng cho hệ thống giáo dục đại học hiện
đại bằng việc mở các trường đại học đầu tiên trên thế giới như Đại Học Bologna (thành
lập năm 1088 qua sắc chỉ của Đức Giáo Hoàng Urban II, là trường đại học đầu
tiên trên thế giới và vẫn hoạt động đến ngày nay); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167
lấy
châm ngôn là “Đức Chúa là Nguồn ánh sáng của tôi” (tiếng
Latinh: Dominus Illuminatio Mea) - Thánh vịnh 27:1, được Giáo hoàng Innôcentê IV trao
hiến chương đại học qua sắc chỉ Querentes in agro năm 1254.); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224); Đại Học Vercelli (1228); Đại Học La Sapienza (1303, là trường đại học có đông sinh viên nhất
thế giới với gần 150.000 sinh viên), v.v. Đến giữa thế kỷ XV (khoảng 70
năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có hơn 50 trường đại học Công giáo trên
toàn châu Âu.
Trong
lĩnh vực pháp luật và ngành luật
Giáo
hội Công giáo thiết lập nền tảng của hệ thống Pháp Luật và ngành Luật học. Vào đầu thế kỷ thứ 12, các giáo sĩ Công giáo đã tạo
ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên trên thế giới mà trong
đó tất cả điều khoản, các phần tương hợp với nhau trong một tổng thể
chung. Vào năm 1088, Giáo hoàng Urban II thể nghiệm ngành luật bằng cách cho thành lập
Đại học Bologna với phân khoa luật,
từ đó nghề luật nổi lên, và khái niệm như "tổ chức pháp nhân",
"cơ quan", "tổ chức", "cơ sở pháp lý", "công
ty", "quỹ tín thác"... ra đời. Và một loạt các nguyên tắc về
luật học như tôn trọng quyền lợi các bên, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp
quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam và việc bắt buộc phải chứng
minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội... cũng được các tu sĩ Công
giáo hình thành. Đây chính là sự thành hình cho các ngành luật hiện đại.
Trong
lĩnh vực từ thiện, bác ái
Giáo
hội Công giáo điều hành một trong những
tổ chức từ thiện lớn nhất hành tinh là Caritas. Caritas Quốc tế (Caritas
Internationalis) là một hiệp hội
của 164 tổ chức cứu trợ nhân đạo quốc tế và phục vụ phát triển xã hội do Giáo hội
Công giáo Rôma điều hành, hoạt động tại hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới. Caritas cùng với Cơ quan Cứu Trợ Nhân Đạo Liên Hiệp Quốc (UNRRA) là hai tổ chức cứu trợ
lớn nhất thế giới.
Tại
Việt Nam, Caritas được Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam thành lập ở cấp Trung ương vào năm 1965. Do biến
động thời cuộc, tháng 6 năm 1976, Caritas Việt Nam bị Nhà nước Việt Nam yêu cầu phải giải thể. Với
sự kiên trì của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Caritas Việt Nam đã được tái lập vào ngày 2 tháng
7 năm 2008. Caritas Việt Nam đã tái hòa nhập làm một thành viên của Caritas Quốc
tế. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa cho phép để Caritas Quốc tế đặt chi
nhánh ở Việt Nam.
Trong
lĩnh vực nữ quyền
Giáo
hội Công giáo khởi xướng phong trào đề
cao phụ nữ và nữ quyền. Trái với định kiến trọng nam khinh nữ vào thời xưa, Giáo hội đánh giá cao người phụ
nữ và đã tôn vinh nhiều vị Thánh nữ, nâng một số Thánh nữ lên hàng Tiến sĩ Giáo hội, một tước hiệu cao quý chỉ được trao cho một vài vị
Thánh lỗi lạc của Giáo hội Công giáo, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu.
Sở
dĩ nữ tu không được làm linh mục trong Giáo hội là
vì truyền thống do Chúa Giêsu đặt để chỉ
chọn người nam làm linh mục, Giáo hội không có thẩm quyền sửa đổi truyền thống
này. Nhiều phụ nữ đã để lại vết son trong sử sách
Giáo hội như các Thánh nữ Hildegard von Bingen, Catarina thành Siena, Têrêsa thành Ávila, Têrêsa thành Lisieux, những người phụ nữ nổi bật trong lĩnh vực chính trị có thể kể
đến Bertha xứ Kent, Nữ hoàng Matilda, Elizabeth xứ Aragon.
Công
giáo cũng mang đến cho nền văn minh con người nhiều nhà khoa học và giáo sư là
phụ nữ đầu tiên trên thế giới như nữ
giáo sư vật lý Italia Trotula ở Salermo trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý Dorotea Bucca,
người đã giữ ghế giáo sư y khoa trưởng tại Đại học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới nhận bằng tiến
sĩ triết học (1678) và Maria Agnesi (1799),
một triết gia, nhà giả kim học, nhà ngôn ngữ học và nhà toán học là người phụ nữ
được Giáo hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại
Italia vào năm 1750.
Vào
tháng 3 năm 2004, Mary Ann Glendon, giáo sư luật học tại Đại học Harvard, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa
Thánh, chủ tịch Hội đồng Đạo đức Sinh học của tổng thống Mỹ được Giáo hoàng
Gioan Phaolô II chỉ định làm Chủ tịch Viện Hàn Lâm Khoa Học Giáo hoàng và
là người phụ nữ đầu tiên trên thế giới đảm trách chức vụ này; trước đó vào
năm 1995, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã chọn bà là người đại diện Vatican
tham dự Hội nghị Quốc tế về các Quyền của Phụ nữ tại Bắc Kinh (Trung Quốc) do Liên Hiệp
Quốc tổ chức.
Trong
lĩnh vực ngôn ngữ
Giáo
hội Công giáo kiến tạo và phong phú hóa
các hệ thống ngôn ngữ căn bản của con người như tiếng Hy Lạp, Latinh và bảng chữ cái alphabet. Giáo hội cũng sáng tạo ra hệ thống chữ nổi Braille dành cho người mù.
Vào
năm 1784, Valentin Haüy, anh trai của Abbé Haüy, một linh mục Công giáo người Pháp, người phát minh ra tinh thể học, đã thành lập ngôi trường đầu tiên trên thế giới
dành cho người mù mang tên Viện Khiếm thị Hoàng gia thanh thiếu niên tại Paris (ngày nay gọi là Viện Quốc gia người khiếm thị, INJA). Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille, vào học năm
1819, với sự hướng dẫn của Valentin Haüy đã phát triển một hệ thống chữ nổi cho
người mù đọc mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ Braille này mang tên
ông.
Tại Việt Nam, vào thế kỷ 17, chữ Quốc ngữ được các
nhà truyền giáo Dòng Tên người Bồ Đào Nha
và Ý sáng chế, linh mục Alexandre de Rhodes là người điển chế hệ chữ viết này với việc in
cuốn từ điển Việt–Bồ–La tại Roma năm 1651. Nhà truyền giáo Girolamo Maiorica viết các
tác phẩm bằng chữ Nôm với lối văn xuôi
gần gũi. Các sách vở Công giáo Hán Nôm tiếp tục được sử dụng phổ biến tại Việt
Nam cho tới giữa thế kỷ 20.
Trong lĩnh vực niên lịch
Giáo hội Công giáo sáng tạo và thiết lập niên lịch mà con người ngày nay sử dụng hằng ngày. Lịch
được sử dụng như là một phần của hệ thống duy trì thời gian hoàn hảo mà trong
đó ngày tháng và thời gian của một ngày cùng nhau chỉ ra các thời điểm theo thời
gian.
Bộ lịch được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới
ngày nay là lịch Gregory, hay còn gọi là
Dương Lịch. Bộ lịch này là tiêu chuẩn quốc tế đo lường thời gian và được sử dụng
ở khắp thế giới cho các mục đích khác nhau, bao gồm cả Trung Quốc và Ấn Độ, vốn là những quốc gia
trước đây sử dụng lịch khác.
Lịch Gregory là bộ lịch do Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban
hành vào năm 1582 lấy mốc thời gian Chúa Giêsu sinh ra
làm năm số 0, còn gọi là Công nguyên, và khoảng thời
gian trước năm 0 gọi là trước Công nguyên (Before
Christ), sau năm 0 gọi là sau Công nguyên (Anno
Domini) và chia lại các thời kỳ của lịch sử con người. Bộ lịch này chia năm
thành 12 tháng với 365 ngày, cứ mỗi chu kỳ hết 3 năm thì thêm một ngày vào cuối
tháng 2 tạo thành năm nhuận.
Các số liệu dựa trên thống kê
“Bệnh viện của Giáo hội Công giáo chiếm 1/4 cơ sở y tế
toàn cầu”. Peter Nguyễn Minh
Trung (VietCatholic News). Ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 7
năm 2011.
“Catholic hospitals comprise one
quarter of world's healthcare, council reports”. CNA. Ngày 10 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 4
tháng 7 năm 2011.
“Những công trình mà Giáo hội cống hiến cho nhân loại”. VietCatholic News. Ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy
cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
“What the Church has given the world”. Rev. Andrew Pinsent (Catholic Herald). Ngày 6
tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
“Khánh nhật Truyền giáo 2010: Thống
kê Công giáo Thế giới”. Hội đồng Giám
mục Việt Nam. Ngày 23 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
Nhận xét
Đăng nhận xét